Первый слайд презентации: Chương III VĂN HÓA ĐẢM BẢO ĐỜI SỐNG
3.1. Nhà ở 3.2. Trang phục 3.3. Tri thức dân gian
Слайд 2: 3.1. Nhà ở
3.1.1. Nhà ở của người Chăm ở Phú Yên, Bình Định 3.1.2. Nhà ở của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận 3.1.3. Nhà ở của người Chăm ở Nam bộ 3.1. Nhà ở
Слайд 3: 3.1.1. Nhà ở của người Chăm ở Phú Yên, Bình Định
Nhà sàn Nhà sàn lớn có 8 cột, có nhà lên đến 10 cột. Cột dài từ 5 đến 6m. Mỗi gian rộng từ 2,5 – 3m. Chiều cao từ mặt đất đến sàn là 0,5m. Có nhà cao đến 0,8m. Dụng cụ làm nhà sàn gồm rựa, rìu, đục, cưa. Nhà sàn nhỏ : Thường có 6 cột Vật liệu : tranh tre nứa lá 3.1.1. Nhà ở của người Chăm ở Phú Yên, Bình Định
Слайд 4: 3.1.2. Nhà ở của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận
Khuôn viên nhà ở truyền thống của người Chăm là khuôn viên của đại gia đình mẫu hệ ; Từ đại gia đình ấy lại có một gia đình tách ra thành lập lập khuôn viên nhà ở mới, thường là vợ chồng người con gái đầu. Mỗi khuôn viên là một hình chữ nhật, giới hạn bằng hàng rào cây gai khô, có các cạnh theo bốn hướng Đông - Tây - Nam - Bắc, trong đó cạnh Đông - Tây dài gấp rưỡi cạnh Nam - Bắc 3.1.2. Nhà ở của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận
Слайд 5: Nhà ở
Dựa vào điểm hỏa - điểm trung tâm của khuôn viên và quan niệm vũ trụ luận để xác định vị trí các “sang” ( nhà ) trong khuôn viên nhà ở truyền thống, gồm có : Sang gin ( nhà bếp ) nằm ở góc Tây - Bắc, hướng mặt về hướng Đông, kề bên sang tôy ( nhà cao cẳng ) và đối diện sang yơ, là “sang” quan trọng nhất bởi, người Chăm quan niệm đây là nơi nuôi dưỡng sự sống tức là lửa. Nhà ở
Слайд 9: Một góc khuôn viên nhà ở của người Chăm tỉnh Ninh Thuận, phục dựng tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam – Hà Nội
Слайд 10: Những đầu “ bẫy ” cách điệu giống mũi con thuyền hướng lên trời ở nhà khách lớn
Слайд 11
Sang yơ là “sang” mang đậm sắc thái truyền thống văn hóa Chăm nhất, được xây dựng ở gần góc Đông - Bắc và đối diện sang gin. Sang yơ có kiểu kiến trúc nhà rội / rọi, số gian và kích thước các bộ phận kiến trúc được quy định chặt chẽ bởi luật tục dân tộc và tín ngưỡng văn hóa. Đây là nơi ở chính của cặp vợ chồng cô con gái đầu mới cưới, khi người em gái cưới chồng thì vợ chồng người chị gái sẽ nhường lại sang yơ cho vợ chồng người em gái, vì người Chăm quan niệm cuộc sống hạnh phúc của cặp vợ chồng mới cưới trong gia đình đều bắt nguồn từ sang yơ.
Слайд 12
Sang mưyâu nằm cạnh và cùng hướng với sang yơ, được xây dựng cho cặp vợ chồng người chị gái khi người em gái lập gia đình. Sang tôy nằm ở phía Tây khuôn viên, hướng mặt ra hướng Đông được coi là “ hướng thần linh, linh thiêng nhất ” và đối diện với sang mưyâu, đây là nhà dành cho bố mẹ già yếu nghỉ ngơi.
Слайд 13: Nhà ở
Sang gar nằm ở hướng Bắc khuôn viên, cửa về hướng Nam, sau khi người em gái lấy chồng bố mẹ sẽ chuyển qua “sang” này sinh sống cùng các anh em trai và những người chưa lập gia đình, từ ngôi nhà này có thể trông coi kiểm soát các ngôi nhà khác trong khuôn viên. Nhà ở
Слайд 14: Sang Lâm
Sang lâm ( nhà khách lớn ) thay cho sang gar ( nhà ngang ), thường xây dựng trong khuôn viên nhà ở truyền thống của gia đình giàu có, có chức sắc và địa vị xã hội, đây cũng là nơi ông bà chủ nhà sinh sống, tiếp khách (xem ảnh phụ lục 3.3, 3.5, 3.6 và 3.7). Sang lâm còn tượng trưng cho người cha và biểu trưng cho tính dương và được xây dựng sát sang yơ. Sang Lâm hiện nay ở Ninh Thuận còn rất ít. Bảo tàng Dân tộc học đã đưa ông Sử Văn Ngọc và nhóm thợ mộc người Chăm Ninh Thuận ra xây dựng sang lâm trong khuôn viên của Bảo tàng trên đường Nguyễn Văn Huyên, Quận Cầu Giấy, Hà Nội. Sang Lâm
Слайд 16: Công trình khuôn viên nhà ở của dân tộc Chăm phục dựng tại khuôn viên tháp Po Kl o ng G i ra i, tỉnh Ninh Thuận
Слайд 17: Hai lớp mái
Đặc điểm nổi bật nhà ở truyền thống của người Chăm là bao giờ cũng có bốn mái : hai mái chính và hai mái phụ tượng trưng cho bốn phương tám hướng theo vũ trụ luận của Ấn Độ, mái có độ dốc thấp. Nhà truyền thống Chăm có hai lớp mái bằng đất (trét như trét tường bằng đất với rơm, rạ) nên mặc dù ở vùng khô nóng nhưng trong nhà lúc nào cũng mát. Hai lớp mái
Слайд 19: Nhà ở thời hiện đại
Hiện nay, đa phần nhà ở của người Chăm đều đã xây bằng gạch, lợp tôn hoặc lợp ngói. Những năm gần đây, nhiều nhà khá giả đã xây dựng những ngôi nhà tầng khang trang, trang trí nội thất hiện đại, thậm chí có những ngôi biệt thự hiện đại khá đẹp như ở các thôn Hữu Đức, Chắt Thường, Hiếu Lễ v.v … Hàng rào khuôn viên được thay bằng tường gạch kiên cố nhưng đa phần vẫn theo mô hình nhà 4 mái và bố trí các nhà, hướng nhà theo phong cách cổ truyền. Nhà ở thời hiện đại
Слайд 20: 3.1.3. Nhà ở của người Chăm ở Nam Bộ
“ Nhà ở của người Chăm ở An Giang là kiểu nhà sàn bằng gỗ, có nhiều nét tương tự cấu trúc ngôi nhà sàn của một số dân tộc ít người ở miền Nam Việt Nam và Đông Nam Á”. Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp (1991), Văn hóa Chăm, Nxb KHXH, tr91 3.1.3. Nhà ở của người Chăm ở Nam Bộ
Слайд 21: Nhà ở người Chăm An Giang
Người Chăm ở An Giang cư trú dọc theo bờ sông, kênh, rạch. Vào mùa nước nổi hàng năm, nhà ở của họ đều bị ngập lụt nên họ làm nhà ở kiểu nhà sàn cao cẳng. Nhà sàn được làm bằng gỗ với cột cao tới 2 – 3 mét. Các cột nhà sàn được kê trên những bệ đá, vừa tránh nước ngập, mối mọt vừa tránh thú dữ. Ngày nay, đa số cột nhà sàn được đổ bê tông nhưng cầu thang và sàn nhà vẫn làm bằng gỗ. Nhà ở người Chăm An Giang
Слайд 22: 3.2. Trang phục
3.2.1. Trang phục của người Chăm ở Phú Yên, Bình Định Ngày xưa, người Chăm H’roi mặc trang phục như người Bana. Sản phẩm dệt của người Chăm H’roi có thể chia làm hai loại : Loại màu đen hay xanh đen chàm không có hoa văn dùng làm váy cho phụ nữ. Một loại dùng làm vải quấn như váy đàn ông hay làm chăn đắp gọi là khăn. Khăn thường có kích thước từ 60 đến 70cm. Khăn có thể trang trí hoa văn hoặc để nguyên. Khăn màu trắng còn dùng để may áo. 3.2. Trang phục
Слайд 26
Đàn ông Chăm H’roi thường mặc sà rông. Sà rông là một tấm vải khổ rộng trên dưới 1m, dài khoảng 1,5 lần vòng bụng. Cách quấn sà rông của người Chăm H’roi cũng giống như cách quấn sà rông của người Chăm ở Ninh – Bình Thuận.
Слайд 27
Phụ nữ Chăm H’roi mặc váy đen chàm, quấn chồng lên nhau 2/3 dài tới mắt cá chân. Ở nhà, phụ nữ Chăm mặc áo trắng, đi làm mặc áo đen chàm. Áo phụ nữ Chăm H’roi ngắn, chỉ phủ đến thắt lưng, cổ viền tròn, ống tay dài, xẻ nách dài đến ngang thắt lưng. Phía trước có nút gài (xem ảnh phụ lục 3.9).
Слайд 28: 3.2.2 Trang phục của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận
Trang phục nữ giới Áo (aw): áo truyền thống của người phụ nữ Chăm là áo dài bít tà, mặc chui đầu mà họ gói là " Aw loah " ( áo có 3 lỗ ), một lỗ chui đầu và 2 ống tay. Áo này xưa kia được cấu tạo bằng 7 mảnh vải, may ghép với nhau, người Chăm gọi là " Aw kauk kaung ". 3.2.2 Trang phục của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận
Слайд 30: Áo dài phụ nữ Chăm
Cổ áo thường khoét lỗ hình tròn hoặc hình trái tim. Nhìn chung từng chiếc áo dài truyền thống Chăm ngày xưa chỉ là những tấm vải ghép lại mà người may quay tròn thành hình ống để bó thân người mặc. Áo có nhiều màu khác nhau như màu trắng, đen, đỏ vàng... và chỉ là những tấm vải thô, trơn không có trang trí hoa văn. Áo dài phụ nữ Chăm
Слайд 33: Áo dài nữ Chăm
Phụ nữ trẻ khi mặc áo dài truyền thống đi dự lễ hội thường choàng loại dây thắt lưng có thêu hoa văn bắt chéo trước ngực và buộc xung quanh lưng ( gọi là " Taley kabak " ) vừa bó eo lưng, vừa trang trí hoa văn, màu sắc sặc sỡ nhìn rất quý phái và tôn dáng kiều nữ vốn rất đẹp của các cô gái Chăm. Áo dài nữ Chăm
Слайд 34: Váy, khăn ( Aban, khan)
Váy người Chăm có hai loại : váy kín và váy mở. Váy mở là loại váy quấn bằng tấm vải, hai mép vải không may dính vào nhau, khi mặc cạp váy được xếp vào và lận vào bên trong giữ chặt eo hông. Nếu là váy kín thì hai mép đầu vải được may dính vào thành hình ống. Phụ nữ lớn tuổi thường mặc váy mở còn váy kín dành cho phụ nữ trẻ tuổi. Chỉ có váy mở có nhiều hoa văn trang trí và có may cạp váy còn váy kín thì không có hoa văn trang trí. Váy, khăn ( Aban, khan)
Слайд 35: Khăn đội đầu
của phụ nữ Chăm thường dệt bằng vải thô màu trắng, xanh, đỏ, vàng... khăn có kích thước 129cm x 32cm, có dệt loại hoa văn quả trám cùng màu phủ kín lên mặt vải. Khăn đội đầu của người Chăm Hồi giáo Bàni thường màu trắng, có may thêm cạp vải hoa văn theo dọ đường biên của khăn gọi là " khăn mbram ", ngày nay, loại khăn này được dệt nhiều màu sắc sặc sỡ cho đẹp. Ngoài ra, phụ nữ Chăm còn có các loại khăn choàng vai, có kích thước khoảng 100cm x 45cm và khăn cầm tay màu đỏ và hộp túi vải để đựng trầu cau. Khăn đội đầu
Слайд 36: Trang phục nam giới
Áo nam : Áo ngắn (aw lah ) là áo truyền thống của người đàn ông Chăm. Áo được may ghép bởi 6 mảnh vải với nhau : mặt thân sau có 2 mảnh vải tách rời, rồi lại máy dính lại vào nhau tạo thành một đường viền chạy dọc theo sóng lưng, phía thân trước cũng gồm hai mảnh vải ghép lại ; và hai bộ phận còn lại là hai vải ống tay may dính vào hai phần nách và phần vai. áo ngắn chỉ mặc chùng xuống đến mông, xẻ hai bên hông khoảng 20cm. Ở phía trước áo có đường xẻ, đính khuy và hai bên vạt trước có hai cái túi. Cổ áo thường là cổ con, tròn đứng, ôm sát cổ. Trang phục nam giới
Слайд 37: Váy, khăn ( aban, khan):
Theo truyền thống từ xa xưa, tất cả người Chăm đàn bà hay đàn ông đều mặc sà rông và khan. Khăn để mặc của đàn ông bình dân được dệt bằng vải thô màu trắng, có kích thước khoảng 186cm x rộng 98cm, không có hoa văn trang trí gọi là " khăn mưrang ". Khăn mặc của đàn ông quý tộc cũng màu trắng nhưng dệt bằng tơ, có hoa văn quả trám phủ kín bề mặt khăn gọi là " khan jwak ". Váy, khăn ( aban, khan):
Слайд 38: Dây thắt lưng
là loại dây có khổ rộng khoảng 10cm - 25cm dài khoảng 180cm - 250cm, thường dùng cho đàn ông và đàn bà mặc váy. Cách buộc dây thắt lưng của người Chăm là quấn một vòng quanh lưng rồi buột gút lại, thả chùng hai đầu dây có tua ra phía trước. Dây thắt lưng
Слайд 39: Khăn đội đầu :
Có 2 loại. Loại bình dân là khăn dệt trơn bằng vải thô trắng. Loại quý tộc thì đội khăn có dệt hoa văn quả trám phủ kín lên mặt vải. Loại khăn này có kích thước 129cm x 32cm. Ngoài khăn đội đầu người đàn ông Chăm còn có khăn vắt vai, tủi nhỏ đeo vai và túi nhỏ đựng thuốc hút. Khăn đội đầu :
Слайд 40: Trang phục Chăm Ninh - Bình Thuận
Trang phục lao động Trang phục trong tang lễ Trang phục trong ngày cưới Trang phục lễ hội : Trang sức: Trang phục Chăm Ninh - Bình Thuận
Слайд 41: Trang phục chức sắc tôn giáo, chức sắc dân gian Chăm
Trang phục tu sĩ Bàlamôn ( passhe ) Tu sĩ Chăm Bàlamôn gọi là passeh và có sắc phục riêng. Mỗi cấp bậc của tu sĩ passeh đều thể hiện những chi tiết khác nhau trên bộ phận của trang phục (xem ảnh phụ lục 3.11). Cả sư Bàlamôn ( Po Dhia ) mặc áo dài trắng, mặc váy, buộc dây lưng và đầu đội khăn. Trang phục chức sắc tôn giáo, chức sắc dân gian Chăm
Слайд 44: Trang phục chức sắc Chăm Bàni
Chức sắc Chăm Bàni gọi là Po Achar. Cũng giống như chức sắc Bàlamôn, hàng ngũ chức sắc Bàni có nhiều thứ bậc khác nhau. Tầng lớp chức sắc này có sắc phục riêng và mỗi cấp bậc của chức sắc đều thể hiện những chi tiết khác nhau trên bộ phận của trang phục. Trang phục chức sắc Chăm Bàni
Слайд 45: Trang phục chức sắc
Điểm đáng chú ý là chùm khăn của cả sư Bàlamôn tượng trưng cho âm vật thì chùm khăn của sư cả Bàni tượng trưng cho dương vật. Ngoài ra, sư cả Po Grù còn đeo 4 túi nhỏ ở phía sau. Trang phục của các cấp trong hàng ngũ tu sĩ Hồi giáo Bàni cơ bản giống nhau, chỉ có một số chi tiết khác nhau trên cạp váy, trên dây lưng. Cách phân biệt các cấp bậc trong hàng ngũ tu sĩ Hồi giáo Bàni cũng tương tự như cách phân biệt trên trang phục của tu sĩ Bà la môn. Trang phục chức sắc
Слайд 46: Trang phục chức sắc
Ngoài các chức sắc tôn giáo là các vị cả sư, phó cả sư, đội ngũ các thầy pashe còn có các chức sắc dân gian như các thầy kéo đàn kanhi hát cúng ( kadhar ), thầy múa bóng ( kain ), vũ sư ( Muk Pajâu ) và ( Muk Rija ), thầy vỗ trống basanưng ( Mưduôn ) và đều có trang phục riêng khác nhau từ kiểu và màu áo, váy, có hoa văn hoặc không có hoa văn ở áo, khăn có tua hoặc không có tua và một số đặc điểm khác để phân biệt cấp bậc, loại hình chức sắc cũng như các thầy chủ các nghi lễ. Trang phục chức sắc
Слайд 47: 3.2.3. Trang phục của người Chăm ở Nam bộ
Người Chăm ở Nam bộ có nghề dệt truyền thống lâu đời. Trong các gia đình đều có khung dệt để tự cung cấp vải may trang phục cho gia đình và để bán. Cộng đồng đồng bào Chăm ở Nam bộ theo tôn giáo Islam nên việc mặc, nhất là đối với phụ nữ đòi hỏi sự đứng đắn, kín đáo. 3.2.3. Trang phục của người Chăm ở Nam bộ
Слайд 48: Trang phục phụ nữ Chăm Islam
Khác với phụ nữ Islam ở các nước Ả Rập phải che kín khuôn mặt, phụ nữ Chăm ở An Giang chịu ảnh hưởng của Islam ở Đông Nam Á nên ít hà khắc hơn, chỉ cẩn che phủ hết mái tóc là được. Họ quan niệm rằng mái tóc là chỗ gợi cảm nhất của người phụ nữ nên phải che kín. Người phụ nữ khi ra đường mà không đội khăn che đầu sẽ bị chê cười là không đứng đắn. Trang phục phụ nữ Chăm Islam
Слайд 49: Khăn trùm đầu phụ nữ Islam
Những chiếc khăn trùm đầu lại tạo nên một vẻ đẹp huyền bí, e ấp quyến rũ, khó lòng rời mắt. Khăn trùm đầu của phụ nữ Chăm có nhiều loại với nhiều màu sắc và dài ngắn khác nhau tùy theo lứa tuổi và thời điểm sử dụng. Loại khăn trùm đầu đẹp và sang trọng nhất chính là loại khăn sử dụng cho cô dâu trong ngày cưới. Cách đội khăn của người Chăm là quấn lên đầu, vòng từ sau ra trước, một phần trùm xuống đỉnh đầu, hai mép gập lại, buông chùng xuống hai tai. Khăn trùm đầu phụ nữ Islam
Слайд 51: Trang phục cô dâu
Cô dâu người Chăm vùng Nam bộ mặc áo dài bằng nhung đỏ, tím chạy dài đến quá đầu gối, không xẻ hông. Quanh ngực và vai quấn một cái băng to bản màu xanh lam, có đính nhiều vòng chuỗi cườm. Dưới chân áo là chiếc xà rông tơ tằm phủ xuống tận mắt cá. Trang sức có những vòng chuỗi vàng, kiềng vàng, xuyến vàng và những cà rá vàng. Theo tập tục, những đồ trang sức trên chỉ được mang theo với số lẻ, chớ không được mang số chẵn (xem ảnh phụ lục 3.4). Trang phục cô dâu
Слайд 53: Trang phục nam giới Islam
Trang phục đàn ông Chăm cũng bị chi phối bởi những ảnh hưởng của Islam. Trang phục trong các buổi hành lễ từ áo, sà rông, khăn, mũ đều có màu trắng thể hiện sự tinh khiết. Khi ở nhà, người đàn ông Chăm mặc khăn, phần trên cơ thể để trần. Khi đi ra ngoài, đàn ông Chăm có thể mặc áo sơ mi ngắn tay. Người lớn tuổi mặc áo chê va, còn gọi là áo ja va. Trang phục nam giới Islam
Слайд 54: Trang phục nam giới Islam
Chê va là loại áo rộng, dài quá mông, cổ đứng cao từ 3 đến 4 cm, trước ngực có đường xẻ, đính khuy đồng, ở nách có nối thêm mảnh vải. Trong ngày lễ, chức sắc mặc áo achuba, còn gọi là áo kak hadji. Áo achuba giống như áo chê va nhưng dài đến gót chân. Áo mặc với sà rông màu trắng, đầu đội khăn hadji trắng. Những người đã qua hành hương về thánh địa Mecca mặc áo kơ rông trắng, dài chấm đất, đầu đội khăn quàng trắng, bỏ mép xuống tận lưng, trên khăn là chiếc vòng ykal hoặc thắt dây bịt đầu. Trang phục nam giới Islam
Слайд 55: Trang phục chú rể Islam
Chú rể người Chăm Nam bộ ăn mặc như ông Haji đi hành hương ở Meca : Áo trắng dài đến gót, quần trắng, ống hẹp, đầu đội mũ vải trắng. Cũng có nơi chú rể mặc áo Karung dài trắng, quấn sà rông có hình quả trám, đeo cà rá bạc. Trên lưng chú rể có đeo chiếc khăn s ă l trắng phủ kín và quấn hai vòng dây yka l đen thả xuống ngang ngực. Cũng có nơi chú rể mặc áo 4 túi, cổ đứng và và vận sà rông, đầu đội mũ nhung đen hoặc tím. Có nơi chú rể đeo thêm một cây gươm bên hông. Cả chú rể và cô dâu đều nhuộm móng tay, móng chân đỏ hồng. Trang phục chú rể Islam
Слайд 56: 3.3. Tri thức dân gian
3.3.1. Văn hoá ẩm thực ( xem phim ) Đọc thêm : Phan Quốc Anh (2006) “ Một số món ăn truyền thống của người Chăm Bàlamôn tỉnh Ninh Thuận ”, Tạp chí Văn hóa dân gian số 5 (107), 2006, tr.14 ( viết chung với Thập Liên Trưởng ). Các món ăn chế biến từ gạo Món ăn chế biến từ bắp Những món ăn chế biến từ rau Những món ăn chế biến từ thủy, hải sản Những món ăn chế biến từ thịt ( asar ). 3.3. Tri thức dân gian
Слайд 57: Các loại bánh ( ahar mưnưng )
Bánh tét ( tapei anung ) (xem ảnh phụ lục 3.17) : Bánh xôi chè ( tapei adang ): Bánh xếp ( tapẽi saip ): Bánh Sakaya : Bánh Củ gừng ( Ginraung laya ): Các loại bánh ( ahar mưnưng )
Слайд 63: Một số kiêng kỵ trong ăn, uống
- Người Chăm Bàlamôn kiêng ăn thịt bò, người Chăm Bàni kiêng ăn thịt heo và thịt dông. Người Chăm Islam kiêng ăn thịt heo. - Thầy pháp, thầy cúng không ăn cá trê. - Ông thầy vỗ trống Basanưng ( mưduôn ), bà múa bóng ( muk rija ) dù là người Bàlamôn hay người Bàni đều kiêng thịt heo, thịt giông. - Có tộc họ kiêng ăn trái mít, chuối nguyên nải. Một số kiêng kỵ trong ăn, uống
Слайд 64: Ăn uống của người Chăm Nam Bộ
Cư trú ở vùng sông nước, các món ăn của người Chăm ở Nam Bộ chủ yếu từ những sản phẩm gia cầm chăn nuôi và thủy hải sản đánh bắt ở vùng sông nước. Khác với người Việt, người Hoa và Kh’mer sinh sống trong vùng, ẩm thực của người ở Nam Bộ tuân thủ theo giáo luật Islam, có nhiều kiêng cữ trong ăn uống. Tuyệt đối không ăn thịt heo vì quan niệm heo là con vật dơ bẩn, ô uế, hay ăn tạp. Ăn uống của người Chăm Nam Bộ
Слайд 65: Kiêng kị trong ăn uống
Điều 4, chương V kinh Cô ran ghi rõ: “Cấm tín đồ ăn thịt các thú vật tự nhiên ngã ra chết, cấm dùng máu huyết thịt heo, thịt thú vật bị giết bằng cách xiết cổ, đập đầu, bị ngã, bị húc hay bị mãnh thú xé xác..”. Người Chăm chỉ ăn những con vật do chính tay người Chăm giết thịt. Khi giết các con vật, người Chăm phải hướng về thánh địa Mecca và đọc kinh Cô ran để cầu nguyện. Dẫn theo Nguyễn Văn Luận, (1974), Người Chàm Hồi giáo miền Tây nam phần Việt Nam. Tủ sách biên khảo – Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên, tr. 91. Kiêng kị trong ăn uống
Слайд 66: Kiêng kị
Khác với người Chăm Bàlamôn kiêng thịt bò. Người Chăm ở Nam Bộ sử dụng thịt bò khá phổ biến. Thịt bò được chế biến ra rất nhiều món ăn truyền thống đặc sắc, trong đó có món cà púa, cà ri và đặc biệt là món tung lò mò (lạp xưởng bò) nổi tiếng khắp vùng. Người Chăm Islam tuyệt đối không uống rượu và đánh bạc. Điều này đã được ghi trong kinh Cô ran mà mọi tín đồ đều phải tuân thủ. Kiêng kị
Слайд 67: 3.4. Y học dân gian
Trước đây, với điều kiện văn hóa xã hội còn lạc hậu, người Chăm đa số tin vào việc ma thuật bùa phép. Nếu bị bệnh có nguyên nhân rõ ràng như thời tiết thay đổi, bị chấn thương v.v... thì trị bằng thuốc dân gian. Còn nếu bị bệnh mà không rõ nguyên nhân, người Chăm cho rằng có lẽ là do xúc phạm thần linh hoặc tế lễ chưa đến nơi đến chốn, có khi là tại thiếu nợ thần linh mà chưa làm các nghi lễ trả nợ. 3.4. Y học dân gian
Слайд 68: Chữa bệnh bằng nghi lễ
Nghi lễ chữa bệnh bằng bùa phép và làm lễ múa ban đêm ( rija yâup ). Trong lễ đó, người chủ lễ là bà múa bóng muk rija thay mặt gia đình hứa với thần linh là sau này nếu bệnh tình qua khỏi, hoặc cầu phúc được phúc, cầu lộc được lộc thì sẽ làm lễ trả nợ. Lễ trả nợ của người Chăm chính là lễ rija praung (chà và – hay là lễ múa lớn). Khi đã hứa với thần linh thì dù nghèo đến mấy cũng phải tìm thời điểm và điều kiện thích hợp để làm lễ trả nợ. Chữa bệnh bằng nghi lễ
Слайд 69
Tuy nhiên, có lẽ với một quốc gia đã từng phát triển rực rỡ, có sự giao lưu, giao thương với nhiều quốc gia trong khu vực và là đất nước chiến tranh triền miên, chắc chắn người Chăm đã từng có nền y học cổ truyền phát triển mà các tư liệu lịch sử hầu như ít ghi chép lại. Bên cạnh những phương pháp chữa bệnh của các thầy cúng, thầy pháp có hơi hướng của mê tín, người Chăm hiện nay có những cây thuốc, bài thuốc quý.
Слайд 70: Y học cổ truyền
Theo khảo sát, có 300 loài thuộc 97 họ thực vật được người Chăm bào chế làm thuốc với 600 vị. Với 677 bài thuốc ( đã phổ biến ), đồng bào có thể trị những bệnh thông th ường như đau răng, nhức đầu, bong gân, g ãy x ương đến những bài phức tạp như rắn cắn, sốt rét, sán xơ mít. “ Dược học cổ truyền của người Chăm không những được truyền miệng mà còn có các văn bản ghi chép để tồn tại, phát triển trong cộng đồng. Những cây thuốc, bài thuốc cổ truyền Chăm dựa trên y học dân gian, cổ truyền, đó là các thuyết âm dương, ngũ hành, tạng thương, thiên nhân hợp nhất. Nguyễn Xuân Tuyển (2007), Những cây thuốc, bài thuốc đồng bào Chăm, Nxb Y học, tr.5 Y học cổ truyền
Последний слайд презентации: Chương III VĂN HÓA ĐẢM BẢO ĐỜI SỐNG: Câu hỏi ôn tập chương 3
Hãy trình bày đặc điểm nhà ở của người Chăm ở Phú Yên, Bình Định. Hãy trình bày về nhà ở của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận Hãy nêu đặc điểm trang phục phụ nữ Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận và An Giang. Hãy trình bày trang phục cưới của người Chăm ở các vùng Hãy trình bày trang phục chức sắc Chăm Bàlamôn Hãy nêu đặc điểm văn hóa ẩm thực của người Chăm ở Nam Trung bộ. Câu hỏi ôn tập chương 3